Hạch cổ là gì? Các công bố khoa học về Hạch cổ

Hạch cổ là một loại bệnh lý ngoại vi ảnh hưởng đến cột sống cổ và thường gây đau và ra một số triệu chứng khác nhau như cảm giác tê, co cứng cổ và cánh tay, và ...

Hạch cổ là một loại bệnh lý ngoại vi ảnh hưởng đến cột sống cổ và thường gây đau và ra một số triệu chứng khác nhau như cảm giác tê, co cứng cổ và cánh tay, và thiếu điều hòa và khả năng vận động. Hạch cổ thường do dây chằng cổ bị tổn thương hoặc căng thẳng quá mức.
Hạch cổ cũng được gọi là viêm dây chằng cổ, là tình trạng mà đĩa đệm dưới đĩa sống cổ bị tổn thương hoặc thoái hóa, gây áp lực lên cột sống cổ và gây đau. Nguyên nhân thường gặp của hạch cổ bao gồm việc ngồi lâu trong tư thế không chính xác, vận động ít hoặc cường độ luyện tập không đúng cách, hoặc bị tổn thương do tai nạn hoặc chấn thương.

Các triệu chứng phổ biến của hạch cổ bao gồm đau cổ, cảm giác tê hoặc co cứng ở cổ và khu vực vai, cánh tay, hậu môn và chân dưới. Ngoài ra, người bệnh cũng có thể gặp khó khăn khi di chuyển cổ, gặp khó khăn khi ngủ và có thể bị đau đầu hoặc chói loá khi xoay đầu.

Để chẩn đoán hạch cổ, việc kiểm tra lâm sàng và hình ảnh như X-quang, MRI hoặc CT scan có thể được thực hiện. Trong trường hợp nặng, điều trị có thể bao gồm dùng thuốc giảm đau, điều chỉnh cột sống, phẫu thuật hoặc thực hiện điều trị vật lý. Việc thay đổi lối sống và tư duy hoạt động cũng có thể giúp cải thiện tình trạng của người bệnh.
Ngoài việc thay đổi lối sống, việc tập thể dục định kỳ cũng có thể giúp cải thiện hạch cổ. Tập thể dục nhẹ như yoga, Pilates, và tập căng cơ có thể giúp cải thiện sự linh hoạt và sức mạnh của cột sống cổ. Bên cạnh đó, thực hiện những bài tập giãn cơ cổ và vai cũng có thể giúp giảm bớt cảm giác căng thẳng và đau.

Ngoài ra, việc duy trì tư thế ngồi và khi làm việc cũng rất quan trọng để giảm thiểu tác động lên cột sống cổ. Sử dụng gối cổ và đảm bảo tư thế làm việc hoặc ngủ thoải mái cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu căng thẳng.

Nếu bạn gặp triệu chứng của hạch cổ, hãy tìm kiếm sự tư vấn từ bác sĩ hoặc chuyên gia y tế để được tư vấn và điều trị đúng đắn.
Các phương pháp điều trị không dùng thuốc cho hạch cổ có thể bao gồm thực hành yoga, Pilates và các bài tập giãn cơ cổ và vai. Các phương pháp này có thể giúp tăng cường cơ bắp, cải thiện linh hoạt và giảm căng thẳng trong vùng cổ và vai.

Thiết lập văn hóa làm việc theo nguyên tắc ERGO (Ergonomics), tạo điều kiện làm việc tốt nhất có thể, hoặc thậm chí là thay đổi chỗ làm việc hoặc tư thế ngồi để cải thiện vấn đề. Điều này có thể đòi hỏi sự hỗ trợ từ chuyên gia về ERGO nhằm tối ưu lợi ích.

Ngoài ra, giảm cân (đối với những người bị thừa cân hoặc béo phì) cũng có thể giảm thiểu tác động lên cột sống cổ. Kỹ thuật thực hành thiền, hít thở sâu và thực hành kỹ thuật giảm căng thẳng cũng có thể giúp giảm bớt các triệu chứng của hạch cổ.

Tuy nhiên, trước khi thực hiện bất kỳ biện pháp nào, bạn nên thảo luận với bác sĩ hoặc chuyên gia y tế để có lời khuyên và hướng dẫn rõ ràng.
Ngoài các biện pháp thể chất và thay đổi lối sống, việc quản lý tâm lý cũng rất quan trọng trong điều trị hạch cổ. Bạn có thể sử dụng kỹ thuật giảm căng thẳng như thiền định, yoga, hít thở sâu và thực hành mindfulness để giúp giảm cảm giác căng thẳng và đau.

Nếu bạn phải ngồi lâu trước màn hình máy tính, hãy tìm hiểu về kỹ thuật sắp xếp bàn làm việc và tư thế ngồi đúng để giảm thiểu căng thẳng lên cột sống cổ.

Hãy nhớ rằng, điều quan trọng nhất trong việc quản lý hạch cổ là tìm hiểu nguyên nhân gốc rễ của vấn đề và tìm ra biện pháp phù hợp để điều trị. Luôn tìm kiếm sự tư vấn từ bác sĩ hoặc chuyên gia y tế để có phương pháp điều trị hiệu quả và an toàn nhất.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "hạch cổ":

Thử nghiệm giai đoạn III so sánh capecitabine cộng với cisplatin với capecitabine cộng với cisplatin kết hợp với Xạ trị Capecitabine đồng thời trong ung thư dạ dày đã được phẫu thuật hoàn toàn với nạo hạch D2: Thử nghiệm ARTIST
American Society of Clinical Oncology (ASCO) - Tập 30 Số 3 - Trang 268-273 - 2012
Mục đích Nghiên cứu ARTIST (Điều trị hóa xạ trị bổ trợ trong ung thư dạ dày) là nghiên cứu đầu tiên mà theo chúng tôi biết đến để điều tra vai trò của hóa xạ trị bổ trợ hậu phẫu ở bệnh nhân mắc ung thư dạ dày đã được cắt bỏ hoàn toàn với nạo hạch D2. Nghiên cứu này được thiết kế để so sánh điều trị hậu phẫu bằng capecitabine cộng với cisplatin (XP) với XP cộng với Xạ trị capecitabine (XP/XRT/XP). Bệnh nhân và phương pháp Nhánh XP nhận sáu chu kỳ XP (capecitabine 2,000 mg/m2 mỗi ngày từ ngày 1 đến ngày 14 và cisplatin 60 mg/m2 vào ngày đầu tiên, lặp lại mỗi 3 tuần) hóa trị. Nhánh XP/XRT/XP nhận hai chu kỳ XP sau đó là XRT 45-Gy (capecitabine 1,650 mg/m2 mỗi ngày trong 5 tuần) và hai chu kỳ XP. Kết quả Trong số 458 bệnh nhân, 228 được phân ngẫu nhiên vào nhánh XP và 230 vào nhánh XP/XRT/XP. Điều trị được hoàn thành như kế hoạch đối với 75,4% bệnh nhân (172 trong số 228) trong nhánh XP và 81,7% (188 trong số 230) trong nhánh XP/XRT/XP. Tổng thể, việc bổ sung XRT vào hóa trị XP không làm kéo dài thời gian sống không bệnh (DFS; P = .0862). Tuy nhiên, trong nhóm bệnh nhân có di căn hạch bạch huyết tại thời điểm phẫu thuật (n = 396), bệnh nhân được phân ngẫu nhiên vào nhánh XP/XRT/XP có thời gian sống không bệnh vượt trội so với những người chỉ nhận XP (P = .0365), và ý nghĩa thống kê vẫn được giữ trong phân tích đa biến (ước tính tỷ lệ nguy cơ, 0.6865; 95% CI, 0.4735 đến 0.9952; P = .0471). Kết luận Việc bổ sung XRT vào hóa trị XP không làm giảm đáng kể tỷ lệ tái phát sau phẫu thuật triệt căn và nạo hạch D2 trong ung thư dạ dày. Một thử nghiệm tiếp theo (ARTIST-II) trên bệnh nhân ung thư dạ dày dương tính với hạch bạch huyết đang được lên kế hoạch.
#Hóa xạ trị bổ trợ #ung thư dạ dày #cắt bỏ D2 #capecitabine #cisplatin #ARTIST #thử nghiệm lâm sàng
Inhalation of nitric oxide modulates methacholine-induced bronchoconstriction in the rabbit
European Respiratory Journal - Tập 6 Số 2 - Trang 177-180 - 1993
Nitric oxide (NO) accounts for the major effects of endothelium-derived relaxing factor. We investigated whether NO, added to the inspired gas, could exert a bronchodilatory action similar to the pulmonary vasodilation described when administering NO during lung vascular constriction. New Zealand White rabbits were intubated and mechanically-ventilated with 30% oxygen during neuroleptanaesthesia. Methacholine (MCh) was nebulized at increasing concentrations from 0.5 to 4.0 mg.ml-1, with or without inhalation of 80 parts per million (ppm) NO. The technique of rapid airway occlusion during constant-flow inflation was used for measuring respiratory mechanics, i.e. resistance and compliance of the respiratory system. Methacholine nebulization without NO inhalation raised the resistance from 51 +/- 6 (mean +/- 95% confidence interval) to 107 +/- 52 cmH2O.l-1.s at Mch 4 mg.ml-1. During NO inhalation, nebulization of MCh showed no significant increase in resistance. Arterial oxygen tension (PaO2) and compliance fell to the same extent during methacholine challenge, whether NO was inhaled or not. Closure of small airways may be a mechanism that causes the decrease in PaO2 and compliance observed. This suggests that 80 ppm NO added to the inspired gas modulates the response in central airway tone to nebulized MCh in this rabbit model. However, it appears to have less effect on peripheral airways.
Inhibition of adenosine 5'-monophosphate- and methacholine-induced bronchoconstriction in asthma by inhaled frusemide
European Respiratory Journal - Tập 3 Số 6 - Trang 665-672 - 1990
Recent studies have shown that inhaled frusemide exerts a protective effect against various bronchoconstrictor stimuli in asthma including exercise, fog and allergen. Since mast cell activation seems to be a component of bronchoconstriction by these stimuli it is possible that inhibition of mediator release accounts for some or all of the inhibitory effects of frusemide in asthma. Since inhaled adenosine 5'-monophosphate (AMP) is another stimulus that produces bronchoconstriction by augmenting mast cell mediator release, we have investigated the ability of this drug to antagonise the airway effects of inhaled AMP and methacholine in a randomized, placebo-controlled, double-blind study of 12 asthmatic subjects. Inhaled frusemide (approximately 28 mg) administered 5 min prior to challenge increased the provocation concentration of inhaled AMP and methacholine required to reduce forced expiratory volume in one second (FEV) by 20% from baseline from 30 to 96 mg.ml-1 (p less than 0.01) and from 1.1 to 1.8 mg.ml-1 (p less than 0.01), respectively. The protection that frusemide afforded against AMP was significantly greater than that against methacholine (p less than 0.05). These data suggest that inhaled frusemide may serve as a functional antagonist against a smooth muscle spasmogen, such as methacholine, possibly by augmenting prostanoid generation. Its more potent activity against AMP and other bronchoconstrictor stimuli, that are considered to involve mast cell mediators, suggests an additional action on mast cell functions possibly at the level of the Ca++/Mg(++)-ATPase.
Toothache prevalence and associated factors: a life course study from birth to age 12 yr
European Journal of Oral Sciences - Tập 116 Số 5 - Trang 458-466 - 2008
This study estimated the lifetime prevalence of toothache at ages 6 and 12 yr, the prevalence of toothache during the last month, and their association with social, behavioural and clinical exposures in the course of life of 339 12‐yr‐old children from a birth cohort in Pelotas, Brazil. Exploratory variables were collected in the perinatal study and during several follow‐up studies. Prevalence ratios were calculated using Poisson regression, following a hierarchical conceptual model. The lifetime prevalence of toothache at ages 6 and 12 yr were 39% [95% confidence interval (CI) = (34;45)] and 63% [95% CI = (58;69)], respectively. Toothache during the last month was reported by 11% [95% CI = (8;15)]. Children who did not live with their biological father at birth, and children with higher dmf‐t counts, reported a higher lifetime prevalence of toothache at age 6 yr. Children experiencing poverty between ages 0 and 4 yr, with higher dmf‐t and DMF‐T indexes presented a greater lifetime prevalence of toothache at 12 yr. Toothache within the last month was more likely to be reported by girls and by children who did not live with their biological father at birth. Preventive strategies should be implemented in early stages of the life cycle, taking into account the socio‐economic and family context in which pain mostly occurs.
Features of cough variant asthma and classic asthma during methacholine-induced brochoconstriction: a cross-sectional study
Springer Science and Business Media LLC - Tập 5 Số 1 - Trang 3 - 2009
Biến đổi khí hậu ở Việt Nam: Một số kết quả nghiên cứu, thách thức và cơ hội trong hội nhập quốc tế
Tóm tắt. Bài báo trình bày một số biểu hiện của biến đổi khí hậu ở Việt Nam trong các thập kỷ qua, xu thế biến đổi trong tương lai cũng như một số bằng chứng và khả năng tác động tiềm ẩn của nó. Việc nghiên cứu biến đổi khí hậu trong quá khứ được dựa trên các tập số liệu quan trắc từ hệ thống mạng lưới trạm khí tượng thuỷ văn của Việt Nam; việc đánh giá xu thế biến đổi trong tương lai được thực hiện thông qua các mô hình khí hậu khu vực nhằm chi tiết hoá các kịch bản biến đổi khí hậu toàn cầu. Bên cạnh các yếu tố như lượng mưa, nhiệt độ, tốc độ gió, v.v… bài báo cũng sẽ chỉ ra một số kết quả về sự biến đổi của các hiện tượng khí hậu cực đoan như mưa lớn, nắng nóng, rét đậm, rét hại, hạn hán, hoạt động của xoáy thuận nhiệt đới, v.v… Vấn đề hợp tác và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực nghiên cứu biến đổi khí hậu và xây dựng các kịch bản biến đổi khí hậu cho Việt Nam, phục vụ chiến lược và kế hoạch ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu, góp phần phát triển bền vững kinh tế - xã hội - môi trường cũng sẽ được đề cập.Từ khóa:  Biến đổi khí hậu, dự tính khí hậu, Việt Nam.
Human Accommodative Ciliary Muscle Configuration Changes Are Consistent With Schachar's Mechanism of Accommodation
Investigative Ophthalmology and Visual Science - Tập 56 Số 10 - Trang 6075 - 2015
The controlling of paleo-riverbed migration on Arsenic mobilization in groundwater in the Red River Delta, Vietnam
Vietnam Journal of Earth Sciences - Tập 42 Số 2 - 2020
In the Red River Delta, the concentrations of Arsenic in groundwater of alluvial dominated systems are very high, exceeding the WHO’s permissible. The correlation between the Arsenic concentrations in groundwater and the age of Holocene sediment as a key controlling groundwater Arsenic concentration in the Red River delta has been investigated. The evolution of sediments in the Holocene is closely related to paleo-riverbed migration in the past. A combination of methods is implemented including remote sensing, multi-electrode profiling (MEP), gamma-logging, drilling, soil sample and groundwater modeling. The resul has identified the shape, sediment compositions and location of the six paleo-riverbed periods. The age of the paleo-riverbed is determined by drilling, soil sampling and optically stimulated luminescence (OSL) in the laboratory. The oldest sediments is 5.9±0.4 ka BP in Phung Thuong near the mountain, the youngest one is from 0.4÷0.6 ka BP in H-transect near the Red River and the rest of the other is around 3.5 ka BP. The modeling results by using MODFLOW and MT3D show that the dynamics of paleo-riverbeds controlling Arsenic mobilization in groundwater in the Red River Delta. When the river moved to another position, the current river position at that time was filled with younger sediments and became paleo-riverbed formation with reducing conditions, Arsenic content which was adsorbed in the previous stage then released into groundwater. Therefore, Arsenic concentration in groundwater of young Holocene sediments is higher than in older ones which elucidates that paleo-riverbed migration controls on Arsenic mobilization in groundwater in the study area.
#Paleo-riverbeds #Groundwater Arsenic pollution #Red River Delta #Dan Phuong-Thach That area #MODFLOW #Solute transport model
Tổng số: 445   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10